“Người muốn học Phật không thể chỉ qua vài hiểu biết mà có thể ngộ được lý chân như.”
CÂU HỎI:
Nam mô A Di Đà Phật
Kính bạch Thầy, con tên Nguyễn Đình Thắng, bà ngoại của con trong quá trình tu tập có một số vấn đề thắc mắc chưa tỏ ngộ, bà ngoại có nhờ con gửi email đến quý thầy, kính mong quý thầy khai thị giúp bà ngoại.
1. Năm 2007 con thỉnh Phật về thờ, và có thờ thêm ông Táo, Thần tài – Thổ địa, cụ Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng hương linh Nội – Ngoại. Năm 2011 con đi chùa và quy y tam bảo. Đến năm 2016, con có duyên được nghe bài giảng của thầy nói về Quy y Phật, không quy y ngoại đạo. Vậy con xin thầy hoan hỷ lý giải cho con được rõ là ngoài Phật ra con còn thờ các vị như trên có gọi là thờ ngoại đạo hay không.
2. Người ta khi sống bị mù mắt. Khi chết đi rồi, hương linh có được sáng mắt hay không ?
3. Chư thiên có 32 cung trời. Cung trời Đao Lợi có 6, Cung trời Sắc Giới có 4, Cung trời Dục giới có 22. Vậy Phật nào phụ trách ?
4. Cha mẹ của Phật ở cung trời nào ?
5. Bồ Tát Quán Thế Âm tên gì, bố mẹ của bồ tát tên gì và quê quán ở đâu ?
6. Đời này có chư tăng nào chứng được 6 phép thần thông chưa ? Đó là vị chư tăng nào ? Các vị ấy chứng quả A La Hán không ? Nếu chứng A La Hán thì trước hay sau khi chứng thần thông ?
7. Năm xưa ở Nhật Bản, Mê Tan bị sóng thần, các chùa Phật và tượng Phật có bị ảnh hưởng gì không ? Chùa Việt Nam lúc đó có ảnh hưởng gì không ?
Lúc bà ngoại của con nhờ con gửi những điều thắc mắc này đến thầy thì lúc đó bà đang ốm phải nằm viện, con do bận nhiều việc và phải đi công tác nên không thể chuyển đến thầy sớm, cách đây 2 hôm bà ngoại con đã từ trần.
Vậy nên con kính mong quý thầy giúp con giải đáp các thắc mắc này cho bà ngoại để bà nơi chín suối được thông suốt trọn vẹn, không còn vướng bận.
Kính chúc quý thầy sức khỏe trên con đường hoằng pháp.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô A Di Đà Phật
TRẢ LỜI:
A Di Đà Phật
Trước hết, Thầy xin có lời chia buồn với gia đình con. Cầu chúc hương linh Bà sớm siêu thoát về miền an lạc. Các thắc mắc của Bà con cũng có một số điều trùng khớp với thắc mắc của nhiều Phật tử khác vốn còn sơ cơ trên con đường học đạo. Do vậy, Thầy sẽ có lời giải thích tương đối cặn kẽ để mọi người có dịp hiểu hơn một số vấn đề cơ bản cần nắm rõ như sau:
Khi một hành giả đến chùa phát nguyện Quy y Tam bảo, sẽ được chư Tăng hướng dẫn ý nghĩa và lợi ích của việc Quy y Tam bảo. Quy y Tam bảo có nghĩa là quay về nương tựa Phật, Pháp, Tăng. Phật là đấng giác ngộ hoàn toàn, phước trí đầy đủ; Pháp là giáo thuyết vô thượng của Phật giúp chúng ta tu tập để được giác ngộ và giải thoát như Ngài; Tăng là những vị xuất gia chân chính, luôn luôn y theo giáo pháp của Phật mà tu tập, đồng thời đem giáo pháp ấy truyền bá trong nhân gian, hầu mong tất cả mọi người đều được giác ngộ. Quy y Tam Bảo còn bao hàm ý nghĩa quay về nương tựa với Phật trong tâm là tánh sáng suốt; với Pháp trong tâm là các đức tánh Từ bi, Trí tuệ, Bình đẳng, Nhẫn nhục, Tinh tấn…, với Tăng trong tâm là sự hòa hợp, thanh tịnh của bản thân, cũng như Tăng-già là hiện thân của sự hòa hợp thanh tịnh bên ngoài. Sau đó, hành giả sẽ được chư Tăng làm lễ truyền trao ngũ giới. Khi được truyền trao ngũ giới, các giới tử sẽ được Giới sư hướng dẫn:
- Quý Phật tử đã quy y Phật rồi, từ nay trở đi thà bỏ thân mạng, trọn đời không quy y Thiên thần và quỷ vật. Vì Thiên thần và quỷ vật kia còn bị luân hồi sanh tử, không phải là Thánh nhân xuất thế gian.
- Quý vị đã quy y Pháp rồi, thà bỏ thân mạng, chớ không nghe theo những lời tà thuyết. Vì đó không phải là pháp môn vô lậu giải thoát.
- Quý vị đã quy y Tăng rồi, thà bỏ thân mạng, chớ suốt đời không đi theo thầy tà bạn ác. Vì những vị đó không phải là người giải thoát chứng quả Tam thừa, họ sẽ dẫn dắt quý vị vào con đường tối tăm nguy hiểm.
Do đó, theo lý, người theo đạo Phật không thờ bất cứ vị Thánh thần nào khác. Mục tiêu của người đệ tử Phật là quay về với chánh pháp, nương tựa Tam Bảo. Không tin, không cầu khẩn bên ngoài tự tánh Phật của mình. Những hoạt động tâm linh nặng về tín ngưỡng thờ cúng, cầu xin như thờ Thần hoàng, Thổ địa, Táo quân… được coi là ngoại đạo.
Tuy nhiên, dân tộc Việt Nam vốn là một dân tộc trọng nghĩa ân và có truyền thống yêu nước nồng nàn. Một trong những truyền thống đạo lý tốt đẹp nhất mà mỗi người Việt Nam luôn ghi nhớ đó là truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, ghi nhớ công ơn của những bậc tiền hiền có công lập quốc, những anh hùng vì nước quên thân. Đức Thánh Trần Hưng Đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vv… là những bậc vĩ nhân của dân tộc, có nhiều công lớn mang lại hòa bình độc lập cho đất nước, được nhân dân lập đền thờ, bàn thờ để tưởng nhớ. Đây là một hoạt động văn hóa tâm linh, thiên về lòng tưởng nhớ, tri ân, mang đậm màu sắc văn hóa dân tộc được Phật giáo ủng hộ và tôn vinh.
1. Theo Đạo Phật, một con người vốn có 2 phần: phần thân xác và phần hiểu biết, phân biệt, gọi chung là phần tinh thần. Khi một con người chết đi, phần thân xác sẽ bị hủy hoại thành cát bụi, phần tinh thần trở thành cái mà người xưa gọi là linh hồn. Riêng Đạo Phật không thừa nhận phần linh hồn này. Bởi vì nếu có linh hồn thì khi mới sinh cho đến khi chết đi nó sẽ không thay đổi. Nhưng phần tinh thần mà trong đạo Phật gọi là tâm thức lại là một dòng thay đổi và biến chuyển không ngừng tùy vào sự huân tập của mỗi con người. Huân tập tốt thì sẽ sinh ra trở lại làm người, cao hơn thì làm Thánh nhân. Huân tập không tốt theo cái xấu, cái ác thì đi xuống làm ngạ quỷ, súc sanh. Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, trong tâm thức lại có sự phân biệt như sau:
Cái thấy, phân biệt của con người dựa vào mắt được gọi là nhãn thức;
Cái thấy, phân biệt của con người dựa vào tai được gọi là nhĩ thức;
Cái thấy, phân biệt của con người dựa vào mũi được gọi là tỷ thức;
Cái thấy, phân biệt của con người dựa vào lưỡi được gọi là thiệt thức;
Cái thấy, phân biệt của con người dựa vào da được gọi là thân thức;
Cái thấy, phân biệt của con người dựa vào ý được gọi là ý thức.
Những cái thấy và phân biệt này luôn sinh diệt và thay đổi. Đến đây thì chắc là tự thân con đã trả lời được câu hỏi của Bà con: “Người ta khi sống bị mù mắt. Khi chết đi rồi, hương linh có được sáng mắt hay không?” Con mắt sau cái chết thực chất là nhãn thức, hay là tánh thấy vẫn còn đó. “Mắt” thấy hay không thấy lúc này sẽ dựa vào gốc huân tập của người đó trước lúc ra đi, chứ không phải dựa vào việc có hay không có con mắt bằng thịt lúc sống. Cho nên, Phật dạy chúng ta tu là để khai ngộ cho mình tánh thấy mà vượt thoát vô minh trong vòng luân hồi sanh tử.
2. Con ơi, các cõi trời là nơi do phước báo nên y báo và chánh báo đều tốt hơn cõi người. Trên các cõi trời đó, là những phàm phu hưởng sự báo đáp của nghiệp quả và khi sự báo đáp ấy hết rồi thì trở vào trong luân hồi. Các phước báo trong cõi đó, tuy là mỹ mãn nhưng còn thuộc về hữu lậu, không chắc chắn, đó chính là sự vô thường, tướng vô định… Chư Phật thường thành đạo ở cõi người và khuyên đệ tử coi cõi trời là hiểm nạn, chướng ngại của sự giải thoát, không nên cầu về. Còn Thiên vương các cõi trời, thường là các vị Bồ-tát dùng Tam-ma-đề (thiền định) mà lần lượt tiến lên, hồi hướng về đường tu hành đạo Phật.
3. Mẫu thân của thái tử Tất-đạt-đa (sau xuất gia, tu hành và thành Phật) là hoàng hậu Ma-da. Trong một kiếp quá khứ khi còn là một thiên nữ ở cung trời Đâu-suất, Bà đã cầu nguyện nhiệt thành mong được tái sinh nơi cõi Người và trở thành người mẹ sinh hạ ra một vị Phật. Sức mạnh của lời khẩn nguyện tha thiết đã đưa bà sinh ra trong dòng tộc hoàng gia và lên ngôi hoàng hậu, vợ của đức vua Tịnh-phạn. Sau khi hạ sanh Thái tử Tất-đạt-đa được bảy ngày, Bà đã băng hà và hóa sinh về cung trời Đâu-suất. Vua Tịnh-phạn là cha của Tất-đạt-đa, trước khi mất, Ông đã được đức Phật hóa độ bằng một bài pháp giúp ngài đắc quả A-la-hán sanh về cõi trời.
4. Bồ-tát Quán Thế Âm vốn có tên tiếng Phạn là Avalokiteśvara. Có nghĩa là người nghe tiếng kêu thầm kín thiết tha từ tâm khảm chúng sanh trong thế gian mà đến cứu khổ. Đem an lạc từ bi tâm vô lượng không phân biệt dến với mọi loài. Ngài dùng vô số phương tiện để nhiếp hóa chúng sanh, tùy nghi mà thị hiện, hoặc hiện bằng thân Phật, thân Tỳ-kheo, thân quốc vương… cho đến thân người nghèo, súc sinh… hễ với thân hình nào mà độ được chúng sanh thì Ngài đều biến hiện ra thân đó để mà hóa độ. Tùy cơ ứng hóa là hạnh nguyện đặc sắc của Bồ-tát Quán Âm. Đại bi thần chú cho chúng ta biết Bồ-tát Quán Thế Âm có nghìn tay nghìn mắt. Nghìn tay biểu thị năng lực vĩ đại cứu giúp chúng sanh; nghìn mắt biểu thị trí tuệ sáng soi không nơi nào là không chiếu đến. Đây là hình ảnh biểu trưng cho trí tuệ và lòng từ bi của Bồ-tát, làm phương tiện tiếp dẫn chúng sanh quay về con đường Chánh giác. Quán Thế Âm là Đức Phật quá khứ hiện sinh trở lại thế giới này.
Trong Kinh Bi Hoa, Đức Phật đã dạy rằng: “Về thời quá khứ lâu xa về trước, đức Quán Thế Âm làm thái tử con của vua Vô Tránh Niệm. Thời bấy giờ có đức Phật hiệu là Bảo Tạng Như Lai hiểu được đạo lý vô thượng, Vua và Thái tử phát tâm Bồ-đề rộng lớn, nguyện tu các hạnh Bồ tát, mong thành Phật quả để phổ độ chúng sanh. Khởi đầu đức Vua và Thái tử làm người thí chủ chân thành cúng dường các thứ y phục, thuốc men, vật thực, mùng mền và tất cả các món cần dùng lên đức Bảo Tạng Như Lai và chúng tăng trong suốt 3 tháng. Nhờ nhất niệm tinh chuyên, tinh tấn không ngừng, vua Vô Tránh Niệm chứng thành quả Phật và phát 48 lời thệ nguyện rộng lớn để tế độ khắp cả chúng sanh, Ngài liền thành Phật hiệu là A-di-đà, giáo chủ cõi Tây phương Cực lạc. Thái tử công hạnh cũng tròn đầy viên mãn cũng về cõi Cực Lạc thành bậc đại Bồ-tát hiệu là Quán Thế Âm cùng với Phật A-di-đà tiếp dẫn chúng sanh về cõi Cực Lạc.”
5. Thắc mắc về thân thông và sự chứng quả, đây là một câu hỏi thật sự không cần thiết đối với một người tu tập con ạ. Người học Phật nên chú tâm tránh 3 nghiệp ác của thân, khẩu, ý và tạo 3 nghiệp lành, vì nghiệp có sức mạnh đưa con người tới khổ hay vui. Cho nên, người theo Đạo Phật trọng sửa mình hơn trọng thần quyền. Có thần thông mà nghiệp còn thì thần thông cũng không có cơ hội thi thố. Ngài Mục-kiền-liên là vị đại đệ tử thần thông đệ nhất của Đức Phật. Vậy mà trước cảnh khổ đau bi đát của mẹ, Ngài không có một phương tiện giải cứu, mà chỉ đứng khóc. Như vậy mới thấy thần thông không chi phối được nghiệp lực. Hai cái khác biệt nhau rõ ràng.
Hòa thượng Thích Thanh Từ từng dạy: “Người tu Phật chân chính là tự trau sửa mình để trở thành người tốt, nhân từ đức hạnh, tâm bình an, trí tuệ sáng suốt, hằng ngày làm lợi ích cho mọi người, đó là điều cơ bản, không hiếu kỳ, không lười biếng, không ỷ vào thần quyền ma lực, tu như thế mới đúng với tinh thần của đạo Phật.”
Theo Kinh Trường bộ kinh II (Kevaddha), Đức Phật giảng về thần thông như sau: “Một hôm, một cư sĩ đến yết kiến Phật và đề nghị một chương trình thu hút tín đồ về cho Phật giáo, một chương trình thật hấp dẫn mà ngày nay chúng ta nghe cũng phải ham. Đó là, hãy để cho một vị tỷ kheo đệ tử của Phật biểu diễn các phép lạ giữa công chúng như đi trên nước, bay giữa hư không, độn thổ, v.v.. mọi người thấy vậy tất sẽ theo Phật rất đông. Sau ba lần tác bạch Đức Thế Tôn vẫn im lặng, cư sĩ nhấn mạnh:
– Bạch Thế Tôn, con không dám phiền đến Ngài đâu, chỉ xin ngài ra lệnh cho một vị tỷ kheo biểu diễn thôi. Ngài khỏi phải nhọc nhằn gì cả, mà pháp của Ngài nhờ đó được hưng thịnh.
Khi ấy đức Thế Tôn hỏi lại cư sĩ:
– Này cư sĩ, sau khi trông thấy những phép lạ như vậy, một số người có thể tin nhưng một số người khác bảo rằng: “Nào có gì lạ, có một thứ bùa chú có công hiệu như vậy.” Trường hợp sau có thể xảy ra không?
– Bạch Thế Tôn, có thể.
– Do vậy, thật vô ích để làm những cuộc biểu diễn ấy.
Rồi đức Phật phân tích có ba loại thần thông là:
1. Biến hóa thần thông, tức biểu diễn các phép lạ như trên.
2. Tha tâm thần thônglà nói được tâm niệm của người khác.
3. Giáo hóa thần thông.
Về biến hóa và tha tâm thần thông, đức Phật thấy nguy hại và vô ích, và Ngài chỉ chấp nhận loại thần thông thứ ba, tức giáo hóa thần thông, đưa con người từ mê đến giác ngộ, từ đau khổ đến an lạc, từ sinh tử đến Niết-bàn.
Tuy nhiên, để thỏa mãn cho câu hỏi này, Thầy cũng nói cho con biết rằng người tu chứng quả liền có thần thông, tu chứng là nhân, và thần thông là hệ quả tất yếu của tu chứng. Vẫn có ngoại đạo thời đức Phật tu đắc thần thông, nhưng chỉ được ngũ thông (trừ lậu tận thông), chỉ có tu theo Phật mới có thể chứng được lục thông. Lục thông (tiếng Phạn: Ṣaḍ abhijñāḥ) nghĩa là Sáu phép thần thông, biểu hiện năng lực trí tuệ của chư Phật, Bồ-tát và A-la-hán. Căn cứ Luận câu xá quyển 27, thì mọi người đều có thể đạt được 5 phép thần thông, duy nhất phép thần thông thứ 6 thì chỉ có những bậc thánh mới có thể đạt được.
1. Thân như ý thông: còn gọi là Thần túc thông: biến hiện tuỳ theo ý muốn, thân có thể bay lên trời, đi trên biển, chui vào trong núi, một thân biến nhiều thân… tất cả mọi động tác đều tuỳ theo ý muốn, không hề chướng ngại.
2. Thiên nhãn thông: nhìn thấy tất cả mọi hình sắc ở gần hay ở xa trong cả thế gian, nhìn thấy mọi hình tướng khổ vui của chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi.
3. Thiên nhĩ thông: nghe và hiểu hết mọi âm thanh trong thế gian, nghe và hiểu hết mọi ngôn ngữ của chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi.
4. Tha tâm thông: biết hết tất cả mọi ý nghĩ trong tâm của chúng sinh trong lục đạo.
5. Túc mạng thông: biết được kiếp trước của chính bản thân mình và của chúng sinh trong lục đạo, từ một đời, hai đời cho đến trăm ngàn vạn đời trước đều biết rõ, nhớ rõ sinh ra ở đâu, cha mẹ là ai, tên gì, làm gì…
6. Lậu tận thông: lậu tức là kiến hoặc và tư hoặc trong ba cõi. Lậu tận thông là dứt trừ toàn bộ kiến hoặc và tư hoặc trong ba cõi, không còn sinh tử luân hồi trong ba cõi, được giải thoát hoàn toàn.
Với câu hỏi thứ 7 của con về sự kiện sóng thần Nhật Bản, Thầy nhờ con vào tìm hiểu thêm trên trang mạng Google nhé.
Phật pháp vốn là chân lý thậm thâm, vi diệu, người muốn học Phật không thể chỉ qua vài hiểu biết mà có thể ngộ được lý chân như. Do vậy, Thầy khuyên Phật tử nếu có điều kiện sắp xếp được nên đến chùa quy y Tam Bảo rồi siêng năng học Phật, nghe pháp. Với các tiện ích của thời đại hiện nay, tuy ở nhà vẫn có thể bố trí tu tập được; nhưng Thầy vẫn khuyên mọi người nên đến chùa. Vì ở đó, tha lực của chúng Tăng và đại chúng đồng tu sẽ giúp sự thọ trì của tự thân càng thêm phần mạnh mẽ hơn.
Thầy đã thực hiện những yêu cầu của Bà ngoại con trước khi mất rồi đó. Thầy chúc con thân tâm thường an lạc .
Thầy,
THÍCH THIỆN THUẬN