Trong một buổi lễ tụng niệm cầu siêu,v.v…, giới hạnh của giới sư rất quan trọng,  người giới sư khi tác pháp làm lễ phải chuyên chú, nhất tâm mới có thể giúp hương linh thức tỉnh chuyển hóa, đồng thời đàn tràng thanh tịnh trang nghiêm, nương nhờ công năng tu tập của chư tăng chư ni cộng với sự thành tâm chú nguyện của gia chủ, giúp thần thức người quá vãng xả ly tham ái, vãng sanh về cảnh giới tốt….

Sáng ngày 04/07/2024 (29/05/Giáp Thìn), Thượng tọa Thích Bửu Minh đã quang lâm về Đại hùng bửu điện chùa Vạn Thiện để tiếp tục chia sẻ pháp thoại tầm quan trọng của nghi lễ Phật giáo.

Thượng tọa chia sẻ về nghi lễ là một trong những môn quan trọng, gắn bó hằng ngày với cuộc đời tu sĩ. Nói đến nghi lễ là nói đến nghi thức tụng kinh, niệm Phật, tham thiền làm phương tiện tự lợi, lợi tha. Trong đó có những nghi thức cúng linh, cầu siêu, hằng thuận… tùy theo tập tục truyền thống để phụng sự cho dân tộc, đất nước.

Tuy nhiên từ hình thức lễ nghi trên văn tự muốn đi sâu vào tu tập phải thực tâm nỗ lực, dù là việc nhỏ đến việc lớn cần làm trong chánh niệm; hành giả cần nương tựa kinh điển, giới luật làm nền tảng tu tập và tinh tấn mỗi ngày để đền đáp bốn ơn. Nghi thức nghi lễ bao trùm cuộc sống của người học Phật, từ sáng đến tối trú dạ lục thời, đều có những bài chú bài kinh nhắc nhở, vì lí do mỗi người do ái sanh ra, tâm thường dính mắc theo trần cảnh mà khởi phiền não, dễ mê mờ, bị vọng tưởng lôi cuốn nên chư Phật chư tổ từ bi chỉ cho hành giả những bài kệ, câu kinh để nhiếp tâm.

Thượng tọa giáo thọ kể cho chư hành giả an cư về tích truyện Tôn giả Xá-lợi-phất đặt ra câu hỏi về tố chất của một vị tỳ-kheo lý tưởng? Khi được hỏi, Tôn giả A-nan cho biết một vị tỳ-kheo lý tưởng phải là người đa văn, học rộng hiểu nhiều; Tôn giả Ca-chiên-diên cho rằng phải giỏi thiền định mới dứt được khổ đau; ngài Mục-kiền-liên cho rằng phải giỏi về biện tài thần thông. Sau cùng Tôn giả Mục-kiền-liên mới hỏi ý Tôn giả Xá-lợi-phất. Tôn giả đáp rằng một vị tỳ-kheo lý tưởng cần phải chế ngự tâm ý, làm gì cũng trong sự điều phục tâm ý, tuy nhiên cần đảnh lễ Thế Tôn để thỉnh ý. Đức Phật đáp rằng các thầy đều phát biểu ý kiến theo địa vị sở trường của riêng mình, nhưng một tỳ-kheo lý tưởng hằng ngày khất thực về, rồi rửa tay chân, trải tọa cụ, ngồi thiền đến khi nào không còn vọng tưởng móng khởi trong tâm; qua đây Đức Phật dạy người xuất gia tu hành một cách giản dị trong bốn oai nghi đi đứng ngồi nằm, nhưng thực sự chỉ có đức Thế Tôn mới thành tựu được viên mãn, với bốn oai nghi Ngài đều an trú trong đại định.

Hằng ngày hành giả cần sám hối tội lỗi vì còn địa vị phàm phu động chân cất bước không thể tránh phạm phải lỗi lầm; thầy giáo thọ đã dẫn chứng trong kinh Từ bi thủy sám định hướng hành giả phát tâm thù thắng để tiêu trừ nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng, có bảy thứ tâm thù thắng: một là tâm tủi hổ, hai là tâm e sợ, ba là tâm chán xa, bốn là tâm bồ đề; năm là tâm oán thân bình đẳng; sáu là tâm nghĩ báo ân Phật, bảy là tâm quán xét tội tánh vốn không.

Nói đến tầm quan trọng của cương vị người chủ lễ, chủ sám, duy na, duyệt chúng; hành giả cần phải có giọng tụng tốt, nhịp nhàng để điều hòa đại chúng để có lợi lạc, sử dụng chuông mõ khánh pháp khí phải nhuần nhuyễn, uyển chuyển, góp phần cho buổi lễ tụng niệm được trang nghiêm thanh tịnh, ngay bản thân mỗi người tham gia thời khóa cũng phải ý thức tốt, có chánh niệm, thân tâm không xao động; chỉ cần một người thất niệm cũng có thể làm đại chúng động niệm, không thanh tịnh.

Trong một buổi lễ tụng niệm cầu siêu,v.v…, giới hạnh của giới sư rất quan trọng,  người giới sư khi tác pháp làm lễ phải chuyên chú, nhất tâm mới có thể giúp hương linh thức tỉnh chuyển hóa, đồng thời đàn tràng thanh tịnh trang nghiêm, nương nhờ công năng tu tập của chư tăng chư ni cộng với sự thành tâm chú nguyện của gia chủ, giúp thần thức người quá vãng xả ly tham ái, vãng sanh về cảnh giới tốt. Hơn thế nữa, người tín chủ còn hiện tiền nhờ giới sư khai thị thiết thực mà trở nên sống hướng thiện, tín tâm với tam bảo để gieo tạo nghiệp lành.

Thượng tọa giáo thọ đã kể cho đại chúng nghe về gương hạnh của tỳ-kheo ni Ưu Ba Tiên Na. trong một khu rừng gần thành Vương Xá, khi đang ngồi thiền định, bỗng Tôn giả Xá-lợi-phất nghe tiếng Tỳ kheo ni kêu cứu ở một khu rừng đối diện; Ngài liền xả thiền, vội vàng đi tiếp cứu. Khi đến nơi, Ưu Ba Tiên Na lấy lại được sự bình thản và trình bày trong lúc đang tọa thiền,… tỳ-kheo ni đã bị rắn cắn, nọc đọc của rắn đã ngấm vào cơ thể và nhờ ngài Xá-lợi-phất thông báo cho chư ni quy tụ về đây để Ưu Ba Tiên Na được tỏ lời cáo biệt; sắc diện của Ưu Ba Tiên Na vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra. Thấy thế Xá Lợi Phất nói nói rằng: Chắc không hề gì vì sắc diện của Tỳ kheo không biến đổi. Ưu Ba Tiên Na thưa: Bạch Tôn giả! Với đạo lý của Đức Phật, thân do 4 đại, 5 uẩn, hư vọng hợp thành, không có chủ tể là vô thường, là không, rắn làm sao cắn được cái “Không” ấy. Con thầm hiểu như thế nên con không cảm thấy đau đớn. Nhờ đó mà nét mặt con không biến sắc”. Khi nọc độc của rắn đã ngấm khắp cơ thể, Ưu Ba Tiên Na xã bỏ báo thân, vào cõi tịch diệt Niết Bàn. Trước các Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, Tôn giả Xá Lợi Phất tán thán tỳ-kheo ni Ưu Ba Tiên Na, do đạt được giới thân huệ mạng nên có một cái chết thật đẹp, sắp chết mà sắc diện vẫn không bị biến đổi, tâm hồn lại rất bình thản, đáng cho người tu hành phải noi gương.

Tụng kinh niệm phật ngồi thiền hằng ngày tuy đơn giản, nhưng phải có sự tinh tấn siêng năng lâu dài, nghiêm túc tu tập mới đạt đạo. Trên lộ trình tìm cầu giác ngộ, giải thoát không thể thiếu nghi thức, nghi lễ để tự tu và phụng sự chúng sanh. Hành giả cố gắng nghiên cứu nghi thức, nghi lễ gần gũi với thực tế, cũng như thúc liễm thân tâm để khi dấn thân phụng sự với tâm đã thuần mọi Phật sự nương đó được thuận lợi, viên mãn.