Tôn chỉ đức Phật dạy viễn ly để giúp hành giả được giải thoát chứ không phải viễn ly để cầu sự cung kính; viễn ly để dứt tất cả các lậu hoặc chứ không phải viễn ly để cầu danh tướng; viễn ly để dự vào dòng thánh chứ không phải viễn ly để cho có tiếng khen ở đời. Đây là điều các tỳ-kheo phải thực tập theo lời Phật dạy chứ không theo truyền thống viễn ly của các du sĩ ngoại đạo đã truyền bá từ bấy lâu nay….
Sáng ngày 06/07/2024 (01/06/Giáp Thìn), Thượng tọa Thích Thiện Thuận, Hóa chủ kiêm giám luật Hạ trường đã quang lâm về Đại hùng bửu điện chùa Vạn Thiện để tiếp tục chia sẻ pháp thoại về chủ đề “Hạnh viễn ly”
Trong buổi học trước Thượng tọa giáo thọ đã giảng dạy về thân viễn ly và tâm viễn ly. Đến với tiết học hôm nay, Thượng tọa đã trình bày tường tận về Hữu viễn ly. Do vì nhận thức không đúng đắn nên con người thường tham luyến dục lạc của thế gian, chiều chuộng thân ngũ uẩn của mình, tạo tác các nghiệp chẳng lành đến nỗi chìm vào luân hồi, bị giam hãm trong ba cõi dục, sắc và vô sắc.
Cho đến khi hành giả trực nhận ra được sự phiền toái của thân ngũ uẩn, thấy rõ đời sống mê lầm của chính mình; hành giả muốn dừng lại vì thấy được sanh tử trầm luân đầy rẫy những khổ đau, sanh đây chết kia, nhọc nhằn trên chặng đường sống chết mà không biết lúc nào mới dừng nghỉ; đó chính là lúc hành giả quay về sống với chính mình, thể hiện đời sống tu tập một cách nghiêm túc.
Tất cả sự tu tập dựa trên tam tạng giáo điển đều hướng tới chấm dứt sanh tử. Thực hành các pháp môn độc cư, hành thiền, niệm Phật, trì chú, lễ bái, sám hối, khất thực v.v…đều chỉ là phương tiện cho pháp hành để hướng đến mục đích thoát khỏi luân hồi, rời xa sanh tử là mục đích tối hậu.
“Thế trừ tu phát, đương nguyện chúng sanh, viễn ly phiền não, cứu cánh tịch diệt” là điều mà những vị sư phụ đã nhắc nhở đệ tử của mình khi mới vào chùa thế phát; vào chùa sống đời xuất gia không vì mục đích nào khác ngoài để xa lìa phiền não đạt được an lạc, tịch tịnh, giải thoát.
Khi còn ở nơi hoàng cung, Thái tử Tất-đạt-đa đã từng đặt ra câu hỏi cho vua cha Tịnh Phạn là làm thế nào để trẻ mãi không già, sống hoài không chết và thoát ra hẳn tất cả khổ đau. Đức vua không trả lời được, nhân đó Thái tử bày tỏ xin được đi tìm lời giải đáp đâu là cội nguồn của đau khổ. Hành giả ngày nay không dám so với Phật, không dám bì với Tổ, nhưng chí ít chúng ta đã có đôi lần ưu tư như các vị Tổ vì chặng đường sanh tử nhọc nhằn, vì những nỗi khổ đau phiền muộn đã đến với cuộc đời của chính mình. Những ưu tư này chính là sự nhận thức sâu sắc có khả năng làm thay đổi cảm xúc thói quen, tập quán nghiệp của hành giả để chuyển mê khai ngộ ly khổ đắc lạc.
Thượng tọa giáo thọ đã trùng tuyên và giảng giải cho chư hành giả an cư về kinh Tăng Chi, Phẩm Hạt Muối, bài số 92, đức Phật nói đến đời sống viễn ly, có 3 hạnh viễn ly được các du sĩ ngoại đạo trình bày là viễn ly y áo, viễn ly đồ ăn khất thực, viễn ly sàng tọa. Thượng tọa phân tích việc du sĩ ngoại đạo cho rằng tham đắm vào thức ăn, áo mặc, và nơi ở là khổ đau, nên họ sống khổ hạnh nhưng việc họ làm không đưa đến tuệ giải thoát.
Dựa trên 3 tiêu chí viễn ly hạnh của các du sĩ ngoại đạo, đức Phật dạy các tỳ-kheo có ba hạnh viễn ly trong pháp và luật. Một là, gìn giữ giới luật, từ bỏ ác giới, viễn ly ác giới. Hai là, có chánh tri kiến, từ bỏ tà kiến, viễn ly tà kiến. Ba là, đoạn tận các lậu hoặc, từ bỏ các lậu hoặc, viễn ly các lậu hoặc. Tỳ kheo đạt được tối thượng căn bản thanh tịnh là tỳ kheo viễn ly ác giới, viễn ly tà kiến và viễn ly lậu hoặc.
Tôn chỉ đức Phật dạy viễn ly để giúp hành giả được giải thoát chứ không phải viễn ly để cầu sự cung kính; viễn ly để dứt tất cả các lậu hoặc chứ không phải viễn ly để cầu danh tướng; viễn ly để dự vào dòng thánh chứ không phải viễn ly để cho có tiếng khen ở đời. Đây là điều các tỳ-kheo phải thực tập theo lời Phật dạy chứ không theo truyền thống viễn ly của các du sĩ ngoại đạo đã truyền bá từ bấy lâu nay. Thượng tọa giáo thọ tin rằng hành giả an cư hiểu rõ đau khổ của mình, vì bám chắc vào điều gì đó chưa làm được và từng cố gắng tìm cách này kia thỏa mãn điều mình mong muốn; hành giả phải dùng tuệ quán để nhìn ra được dục là nguyên nhân của khổ, chuyển biến thành hạnh nguyện liễu sanh thoát tử và nỗ lực tu tập chuyển hóa để mỗi ngày trôi qua trong cuộc đời là một ngày có ý nghĩa.